loi ich ruou vang do

Rượu vang, rượu mạnh và bia, Tốt – Hại thế nào

Thường chúng ta vẫn “nâng cốc, chúc sức khỏe” – mỗi dịp có chuyện vui. Trong khi uống rượu, nhất là rượu mạnh, hoàn toàn khong tốt cho sức khỏe. Cho dù mặt khác một ly ruoju vang chát có thể tiếp thêm sức sống cho trái tim. Sự thật ảnh hưởng sức khỏe của rượu là thế nào?

tac hai ruou bia
Các loại rượu, bia, rượu mạnh nên dùng thế nào để tốt cho sức khỏe

Rượu vang – Có thực sự tốt nhất cho sức khỏe?

Rượu vang nho đỏ và trắng có tính năng diệt khuẩn, phát huy tác dụng tẩy trùng.  Trái với suy nghĩ phổ biến, không phải cồn trong rượu vang phát huy tác dụng chống vi trùng, mà chính Polifenole (hợp chất Antocyjan). Có thể tận dụng tính năng đặc biệt này của rượu vang thí dụ trong các chuyến đi xa – nếu nghi ngờ chất lượng nước uống tại địa phương xa lạ, nên pha thêm rượu vang chát vào nước uống với tỷ lệ 1:1

ich loi ruou vang do
Uống rượu vang đỏ có lợi cho sức khỏe thế nào?

Rượu vang chứa các Flavonoid vốn được coi là những chất chống oxy hóa rất tốt. Trong khi, như phổ biến đã biết – các chất chống oxy hóa phát huy tác dụng vô hiệu hóa các thành phần tự do nguy hiểm đối với sức khỏe, bảo vệ chúng ta trước nhiều bệnh, trong đó có các bệnh hệ tim mạch. Kết quả nhiều nghiên cứu đã thực hiện cũng khẳng định, uống 1 ly vang chát/ngày có thể làm gia tăng nồng độ cholesterol tốt (HDL) trung bình thêm 7%.

Uống rượu vang đỏ vừa phải (1 ly/ngày) phát huy tác dụng giảm thiểu sự kết dính “bụi” máu, nhờ thế có thể giảm thiểu nguy cơ xuất hiện các cục máu đông (một trong những thủ phạm gây nhồi máu cơ tim và tai biến não). Nhân tố chống đông máu là Reseratol – hợp chất tiềm ẩn trong vỏ quả nho.

Xoa dịu tiến triển mãn kinh: Những phụ nữ đang tiến dẫn đến tuổi mãn kinh nên yêu thích rượu vang đỏ, bởi uống 3 ly/tuần sẽ giúp cơ thể gia tăng một chút nồng độ estrogen, tức hormone nữ giới – sản phẩm do buồng trứng tạo ra giảm dần cùng tuổi tác. Nồng độ estrogen cao hơn sẽ phát huy tác dụng giảm thiểu những triệu chứng khó chịu của tuổi mãn kinh.

Cung cấp vitamin: cả rượu vang trắng, cũng như vang hồng và đỏ đều giàu các vitamin C, PP và các vitamin thuộc nhóm B.

Tuy nhiên, rượu vang kích thích xuất hiện các cơn đau nửa đầu. Với một số người, rượu vang đỏ có thể gây hoặc làm trầm trọng thêm các cơn đau nửa đầu.

loi ich ruou vang do
Uống rượu vang đỏ giới hạn chừng nào là tốt?

Tạo điều kiện thuận lợi xuất hiện bệnh viêm dạ dày và viêm đại tràng. Rượu vang trắng có thể kích thích tiết xuất dịch dạ dày (axit muối là một thành phần) tăng tới 60%, mà tình trạng dư thừa thường làm tổn thương màng niêm mạc dạ dày và đại tràng. Hiện tượng dẫn đến viêm, loét hai bộ phận quan trọng này

Uống bia bao nhiêu là đủ?

Bia chứa khá nhiều vitamin, chủ yếu thuộc nhóm B (B1, B2, B6, B12) cùng vitamin PP và số lượng không nhiều vitamin C. Giàu một số khoáng chất quan trọng đối với cơ thể như kali, phốt pho và magie. Các thành phần tự nhiên được sử dụng trong sản xuất bia là nguồn cung cấp những khoáng chất đó.

Cho dù mẹ cho con bú thuộc diện cấm chỉ định uống rượu, song vẫn có thể uống bia không cồn. Dạn bia này phát huy tác dụng làm gia tăng nồng độ Prolactin – hormone điều chỉnh quá trình tiết sữa của phụ nữ.

Uống 1-2 ly bia/ngày làm gia tăng nồng độ HDL trung bình 7%. Tuy nhiên bia không có tác dụng giảm thiểu nồng độ cholesterol xấu (LDL).

ich loi uong bia
Lợi – hại khi uống bia

Uống ½ ly bia/ngày giảm thiểu gần 40% nguy cơ xuất hiện sỏi mật. Việc uống lượng nhỏ bia thường xuyên phát huy tác dụng giảm thiểu cholesterol trong túi mật – yếu tố hạn chế nguy cơ tạo sỏi trong túi mật.

Bia không cồn uống liều nhỏ (1 ly/ngày) có thể làm gia tăng nồng độ estrogen trong máu phụ nữ tuổi mãn kinh. Nồng độ cao hormone này trong cơ thể phát huy tác dụng giảm thiểu những triệu chứng khó chịu trong thời kỳ tiến triển mãn kinh

Những tác hại của bia là bia đã uống trong vòng 15 phút trước hút thuốc làm cho nicotin thẩm thấu vào máu chậm hơn – hệ quả kích động đối tượng hút nhiều hơn, để bổ sung tình trạng thiếu hụt.

Dạ dày tiết ra lượng axit muối và men tiêu hóa nhiều hơn – ngay sau khi uống một lon bia. Vết loét hoặc viêm niêm mạc dạ dày và đại tràng sẽ mở rộng vì hiệu ứng đã kể. Nguy cơ xuất hiện áp huyết cao tăng 40% ở những người uống nhiều hơn 2 lon bia/ngày.

Uống bia có tác dụng lợi tiểu, yếu tố cho phép làm sạch đường tiết niệu, tuy nhiên những người có thiên hướng tạo sỏi đường tiết niệu không được chỉ định, bởi sẽ gia tăng nguy cơ xuất hiện sỏi thận. Bia chứa khá nhiều purin – hợp chất biến thành axit tiết niệu sau khi thâm nhập vào cơ thể. Tình trạng dư thừa axit này sẽ dẫn đến bệnh thấp khớp.

Có nên uống rượu mạnh không?

Có thể dùng để rửa khu vực bị chấn thương hoặc khử trùng bàn tay trước khi thực hiện thao tác đòi hỏi vệ sinh, thí dụ thay băng cứu thương.

Tuy nhiên, hầu như rượu mạnh không có giá trị nhiều về mặt dinh dưỡng. Rượu Vodka được sản xuất từ nhiều loại ngũ cốc (gạo, lúa mạch, lúa mỳ, ngô, khoai sắn) hoặc khoai tây, song chỉ là một dạng cồn không màu, không chứa thành phần có lợi đối với sức khỏe.

Dẫn đến sự gia tăng nồng độ cholesterol xấu (LDL) trong máu. Uống nhiều rượu mạnh còn hủy diệt cholestero tốt (HDL)

ruou manh chau au
Các loại rượu Tây mạnh

Làm gia tăng áp huyết. Uống trên 3 ly/ngày làm gia tăng 90% nguy cơ phát triển bệnh áp huyết cao. Áp huyết tăng trung bình 1 mmHg – ngay sau khi uống ly nhỏ 50 ml. Theo các nhà khoa học, trong trường hợp áp huyết, rượu có hại hơn muối ăn. Làm cơ thể mất nước. Đồng thời sục rửa khỏi cơ thể các vitamin và thành phần vi khoáng, thí dụ kali, phốt pho,… tức ảnh hưởng xấu tới chức năng nhiều cơ quan nội tạng, nhất là tim.

Gây nhức đầu. Trong nhiều tế bào não bộ xuất hiện những thay đổi gây ra hiệu ứng đau dầu – sau khi uống vài ly rượu mạnh. Làm giảm trí nhớ và khả năng tập trung. Nghiện rượu dẫn đến những thay đổi hữu cơ trong não bộ, không chỉ hủy hoại trí nhớ, mà còn có thể dẫn đến nhiều chứng bệnh tâm thần.

Hủy hoại gan. Uống rượu mạnh dù chỉ 1-2 ly/ngày) kéo dài nhiều năm có thể dẫn đến bệnh gan nhiễm mỡ và xơ gan. Kích thích khả năng xuất hiện bệnh dạ dày và đại tràng. Lý do: rượu làm gia tăng tiết xuất axit muối – hợp chất tạo điều kiện gia tăng nguy cơ viêm loét dạ dày và đại tràng.